Bản chất xã hội của ngôn ngữ là gì

1. Tổng quan về ngôn ngữ

Chúng ta đang sống trong thế giới ngôn từ. Trong tất cả các phương tiện mà con người sử dụng để giao tiếp, ngôn ngữ là phương tiện duy nhất để thoả mãn mọi nhu cầu của con người. Vì vậy, ngôn ngữ đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong cuộc sống, và mỗi giây, mỗi phút, ai đó đang nói, viết, đọc gì đó. Cuộc sống của chúng ta phụ thuộc rất nhiều vào việc sử dụng ngôn ngữ nhanh chóng và hiệu quả. Ngôn ngữ là công cụ giao tiếp phổ biến vì nó đi cùng con người, từ khi ra đời cho đến ngày nay. Cách thức giao tiếp này từng bước được bổ sung và hoàn thiện cùng với lịch sử tiến hóa của loài người và những trào lưu, xu hướng tiếp xúc văn hóa từ xa xưa đến nay. Vậy ngôn ngữ là gì? Tại sao nó lại trở nên quan trọng đối với cuộc sống của con người?

Theo những đặc điểm quan trọng của ngôn ngữ loài người, các nhà ngôn ngữ học định nghĩa ngôn ngữ như sau: “Ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu âm thanh đặc biệt, là phương tiện giao tiếp cơ bản và quan trọng nhất giữa các thành viên trong cộng đồng loài người; Ngôn ngữ cũng là một phương tiện phát triển trí tuệ. Truyền thống văn hóa và lịch sử được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. “1

Con người khác với động vật ở chỗ chúng có ngôn ngữ. Ngôn ngữ của con người không phải là một hiện tượng tự nhiên, cũng không phải là một phản xạ bản năng như phản xạ có điều kiện của một số sinh vật. Nó cũng không phải là một hiện tượng riêng lẻ, và ngôn ngữ, mặc dù liên quan đến mỗi cá nhân, không phụ thuộc vào cá nhân. Ngôn ngữ là sản phẩm tập thể, nó tồn tại và phát triển cùng với sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Bởi vì

1 Nguyễn Thiện Giáp – Giáo trình Ngữ văn, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia, trang 28

Vì vậy, nó là sự tồn tại và sự phát triển của một ngôn ngữ phụ thuộc vào sự tồn tại và phát triển của một cộng đồng những người nói ngôn ngữ đó.

Mặt khác, nó được gọi là một hiện tượng xã hội vì ngôn ngữ tồn tại. Tồn tại trong xã hội loài người với tư cách là công cụ để con người giao tiếp, trao đổi thông tin với nhau. Mác và Ăng-ghen đã nói trong tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức”: “Ngôn ngữ là ý thức về hiện thực, cũng giống như ý thức về ngôn ngữ, chỉ có tính tất yếu, ngoài nhu cầu giao dịch với người khác”. Các hiện tượng, người ta thường nghĩ về chúng dưới hai phạm trù của cơ cấu xã hội: cơ sở hạ tầng và kiến ​​trúc thượng tầng. Tất nhiên, ngôn ngữ không thể được coi là cơ sở hạ tầng, vì nó không phải là công cụ sản xuất cũng không phải là quan hệ sản xuất. Nó chỉ là một cách để mọi người giao tiếp với nhau. Cũng không thể phân loại ngôn ngữ là kiến ​​trúc thượng tầng, bởi vì tất cả các thiết chế của kiến ​​trúc thượng tầng, như nhà nước, luật pháp, thể chế chính trị, tôn giáo, v.v., đều dựa trên cơ sở hạ tầng. Khi cơ sở hạ tầng thay đổi, kiến ​​trúc thượng tầng cũng vậy. Mặc dù là một công cụ để giao tiếp và tư duy, nhưng ngôn ngữ không thay đổi theo cơ sở hạ tầng. Mặt khác, ngôn ngữ không mang tính giai cấp như các hệ thống như triết học, luật pháp, chính trị, v.v. giai cấp, bởi vì những ý tưởng của mọi thời đại đều là những ý tưởng thống trị. Nói cách khác, ngôn ngữ không phải là tài sản của bất kỳ ngôn ngữ nào, nó là tài sản của toàn xã hội.

Bản chất xã hội của ngôn ngữ

2. Tính xã hội của ngôn ngữ

Ngôn ngữ học đã chứng minh rằng ngôn ngữ là một hiện tượng xã hội đặc biệt. Bản chất xã hội của ngôn ngữ thể hiện ở chỗ:

Trước hết, ngôn ngữ phục vụ xã hội, là phương tiện giao tiếp giữa con người với nhau, phương tiện trao đổi ý kiến ​​trong xã hội, phương tiện giúp mọi người hiểu nhau và một cách thức tổ chức chung. Cùng nhau làm việc trong mọi lĩnh vực hoạt động của con người. Trong tất cả các phương tiện mà con người sử dụng để giao tiếp, ngôn ngữ là phương tiện duy nhất để thoả mãn mọi nhu cầu của con người. Ngôn ngữ là công cụ giao tiếp phổ biến vì nó đi cùng con người từ khi xuất hiện cho đến ngày nay. Chúng ta biết rằng để đáp ứng nhu cầu giao tiếp của xã hội, con người đã tạo ra và thiết lập nhiều hệ thống tín hiệu khác nhau ngoài hệ thống tín hiệu ngôn ngữ. Có những hệ thống tín hiệu có thể vượt qua biên giới quốc gia, vượt qua ranh giới của các thể chế chính trị và phục vụ con người, chẳng hạn như toán học, hệ thống ký hiệu hóa học … nhưng người sử dụng chúng phải rất sáng suốt và ít nhất phải có trình độ học vấn nhất định, hoặc phải là những người có trình độ chuyên môn cao. Tính chọn lọc cao như vậy là điều xa lạ đối với mọi dân tộc. Vì ngôn ngữ tự nhiên không phân biệt giới tính, tuổi tác, địa vị xã hội, trình độ học vấn… mà phục vụ cộng đồng một cách công bằng.Vì vậy, khái niệm ngôn ngữ phổ thông phải được hiểu là một phương tiện truyền thông không kén người sử dụng, có thể truyền tải tất cả các nội dung thông tin khác nhau mà người nói cần. Từ việc thể hiện tình cảm và thái độ của người nói, đến nhu cầu tình cảm tế nhị, nhu cầu truyền đạt kinh nghiệm tự nhiên hay truyền bá kiến ​​thức… Đồng thời, các phương tiện khác chỉ có thể đáp ứng một phần nhu cầu của người nói. thể hiện và giao tiếp. Tóm lại, ngôn ngữ là một phương tiện giao tiếp phổ biến vì xét về mặt số lượng, nó phục vụ cho nhiều thành viên trong cộng đồng. Về chất lượng, nó giúp các thành viên cộng đồng bày tỏ nhu cầu giao tiếp của họ. Do đó, ngôn ngữ trở thành phương tiện giao tiếp giữa con người với nhau, phương tiện trao đổi ý kiến ​​trong xã hội, phương tiện giúp chúng ta hiểu nhau, tổ chức công việc chung của con người trong các lĩnh vực hoạt động khác nhau.

Thứ hai, ngôn ngữ thể hiện ý thức xã hội. Vì là biểu hiện của ý thức xã hội nên ngôn ngữ có thể là phương tiện giao tiếp giữa người với người. Giống như mối quan hệ giữa cái ký hiệu và cái được ký hiệu trong lý thuyết ký hiệu học hiện đại, ngôn ngữ đã biểu thị tư tưởng của con người. Trong mối quan hệ này, tư tưởng và tư tưởng được thể hiện, và ngôn ngữ được thể hiện. Thông qua ngôn ngữ mà thực tế được chia thành các khái niệm. Nếu không có ngôn ngữ, con người sẽ không thể phân hủy thực tế thành các khái niệm. Trong quá trình phát triển nhận thức của con người, lúc đầu, nội dung của ngôn từ còn nghèo nàn, mơ hồ, nhưng do ảnh hưởng của quá trình văn hóa nhân loại, từ ngữ đã được ban tặng những ý nghĩa tinh tế hơn, phù hợp với nhu cầu của con người. phản ánh. Trong quá trình này, từ ngữ được thu gọn lại thành một lớp vỏ lấp đầy suy nghĩ của chúng ta về một điều cụ thể. Ngôn ngữ nói chung đại diện cho ý thức của xã hội loài người, nhưng mỗi hệ thống ngôn ngữ cụ thể phản ánh bản sắc của các nhóm ngôn ngữ như phong tục tập quán của toàn xã hội.

Thứ ba, ngôn ngữ có khả năng hình thành văn hóa, là một bộ phận quan trọng của văn hóa; khả năng giao tiếp của con người phụ thuộc vào kiến ​​thức ngôn ngữ, kỹ năng giao tiếp và kiến ​​thức văn hóa. Khi chúng ta học bất kỳ ngoại ngữ nào, chúng ta thường không nhận thấy ngay sự khác biệt giữa ngôn ngữ đó và ngôn ngữ mẹ đẻ của mình, nhưng chúng ta thường bị thu hút và giúp đỡ rất nhiều bởi các tính năng của hai ngôn ngữ. Con người, cho dù họ nói ngôn ngữ nào, dù họ sống ở đâu, họ đều có một số điểm chung về sinh học và văn hóa. Có thể nói, văn hóa là một dạng tồn tại đã qua xử lý do nó chịu tác động của con người trong quá trình sử dụng ngôn ngữ tự nhiên để đáp ứng nhu cầu xây dựng và phát triển văn hóa. Nói cách khác, ngôn ngữ có sức mạnh định hình văn hóa. Đối với bất kỳ quốc gia nào, dân tộc nào và bất kỳ nền văn hóa nào, ngôn ngữ cũng là một thành phần quan trọng. Ngoài ra, nếu trong quá trình giao tiếp, nếu chúng ta có vốn kiến ​​thức ngôn ngữ phong phú, năng lực giao tiếp và kiến ​​thức văn hóa sâu rộng thì năng lực giao tiếp của chúng ta sẽ được nâng cao. Ngược lại, nếu thiếu một trong ba yếu tố này, chúng ta sẽ không thể tự tin giao tiếp. Tất nhiên, câu nói này chỉ mang tính chất tương đối, vì hiểu biết của con người là có hạn. Chúng ta có thể am hiểu về lĩnh vực này nhưng không am hiểu về lĩnh vực khác.

Phương thức giao tiếp này từng bước được bổ sung và hoàn thiện theo lịch sử tiến hóa của loài người và theo trào lưu, xu hướng tiếp xúc văn hóa từ xa xưa. Hiện nay. Có thể nói, không có đứa trẻ ngôn ngữ nào ngày nay mà không bị ảnh hưởng bởi các nền văn hóa ngoại lai. Có nghĩa là, tất cả các ngôn ngữ tồn tại ngày nay đều đã trải qua quá trình tiếp xúc văn hóa với các ngôn ngữ khác bên ngoài.

Suy cho cùng, sự tồn tại và phát triển của ngôn ngữ liên quan đến sự tồn tại và phát triển của xã hội. Khi xã hội ngày càng phức tạp và đa dạng, ngôn ngữ cũng phải trở nên phong phú hơn để phản ánh một cách thích hợp và kịp thời sự tiến bộ của xã hội. Nhìn lại quá trình phát triển của xã hội loài người, chúng ta thấy tổ chức xã hội đầu tiên của loài người là thị tộc. Đó là tập hợp những người có cùng huyết thống. Một số thị tộc quen thuộc liên kết với nhau để tạo thành một bộ lạc. Các bộ lạc liên kết với nhau để tạo thành bộ lạc hoặc liên minh bộ lạc. Các quốc gia hiện đại được tạo thành từ các bộ lạc và quốc gia như vậy. Trên thực tế, sự phát triển từ các bộ lạc nguyên thủy đến con người ngày nay không phải là một con đường thẳng, mà là một con đường rất phức tạp và quanh co. Các quá trình hợp nhất và phân tách giao thoa với nhau. Ngôn ngữ được sản sinh và phát triển cùng với xã hội loài người, vì vậy nó cũng trải qua những khúc quanh, xoay vần và cũng phải tuân theo quy luật thống nhất và không tách rời. sự thay đổi về chất.Nhìn lại toàn bộ quá trình phát triển của ngôn ngữ, có thể thấy các bước sau: ngôn ngữ bộ lạc, ngôn ngữ vùng miền, ngôn ngữ dân tộc, ngôn ngữ văn hóa dân tộc và ngôn ngữ cộng đồng tương lai.

Sự thay đổi và phát triển ngôn ngữ luôn xảy ra về cấu trúc và chức năng. Sự tiến hóa từ ngôn ngữ bộ lạc sang ngôn ngữ cộng đồng trong tương lai là một sự tiến hóa chức năng của ngôn ngữ. Sự phát triển cấu trúc của ngôn ngữ thể hiện ở sự thay đổi hệ thống ngữ âm, cấu tạo hình thái, từ vựng, ngữ nghĩa và cấu trúc ngữ pháp. Nếu sự phát triển của ngôn ngữ là nhiều mặt, nhiều mặt thì nguyên nhân dẫn đến sự thay đổi và phát triển của nó cũng rất đa dạng và phong phú. Có người lý giải rằng sự phát triển của ngôn ngữ là do sự phát triển của bộ máy phát âm, do ảnh hưởng của điều kiện địa lý, khí hậu, do ảnh hưởng của tâm lý dân tộc, do tiết kiệm. Bộ máy phát âm, do chơi chữ, do đặc điểm của trẻ tập nói… Chúng ta không phủ nhận ảnh hưởng của các yếu tố trên đến sự phát triển ngôn ngữ, nhưng chưa phải vậy. Phải là nguyên nhân chính, quyết định chiều hướng và sự phát triển của ngôn ngữ. Là một hiện tượng xã hội đặc biệt, sự phát triển của ngôn ngữ nhất định phải chịu sự tác động của các điều kiện xã hội như kinh tế, chính trị, văn hóa. Chỉ khi nghiên cứu sâu về lịch sử xã hội, lịch sử của những người sử dụng ngôn ngữ, sự sáng tạo và bảo tồn ngôn ngữ,… thì mới có thể hiểu được ngôn ngữ và các quy luật phát triển của nó. Sản xuất phát triển, các giai cấp xuất hiện, chữ viết ra đời và các nhà nước được hình thành đòi hỏi ít nhiều giao tiếp chính thức cho các mục đích hành chính. Các doanh nghiệp trưởng thành yêu cầu thông tin liên lạc có quy định hơn. Sự xuất hiện của báo chí và sự tiến bộ của văn học đã mang lại những thay đổi lớn cho sự phát triển của ngôn ngữ. Ngoài ra, ảnh hưởng của sự phát triển ngôn ngữ còn phải kể đến các yếu tố khách quan, như: hình thái cộng đồng quốc gia, dân số, trình độ học vấn, hình thái hệ thống quốc gia, môi trường quốc gia, tốc độ phát triển kinh tế xã hội, quan hệ kinh tế, chính trị và văn hóa, quan hệ tương hỗ … trên. Mức độ phân hóa giữa trình độ phát triển, truyền thống văn hóa, ngôn ngữ địa phương của một quốc gia và các quốc gia lân cận. Những đòi hỏi của xã hội sẽ được đáp ứng bằng cách giải quyết những mâu thuẫn vốn có của ngôn ngữ.

Tóm lại, bản chất xã hội của ngôn ngữ là: ngôn ngữ phục vụ xã hội. Xã hội là phương tiện giao tiếp giữa người với người, là phương tiện giao tiếp. Là phương tiện trao đổi ý kiến ​​trong xã hội, giúp mọi người hiểu nhau, cùng tổ chức công việc chung trong mọi lĩnh vực hoạt động của con người. Ngôn ngữ thể hiện ý thức xã hội, và chính vì nó là hiện thân của ý thức xã hội mà ngôn ngữ có thể trở thành phương tiện giao tiếp giữa người với người. Ngôn ngữ có khả năng hình thành văn hóa và là một bộ phận quan trọng của văn hóa, khả năng giao tiếp của con người phụ thuộc vào kiến ​​thức ngôn ngữ, kỹ năng giao tiếp và kiến ​​thức văn hóa. Sự tồn tại và phát triển của ngôn ngữ gắn liền với sự tồn tại và phát triển của xã hội. Khi xã hội ngày càng phức tạp và đa dạng, ngôn ngữ cũng phải trở nên phong phú và đa dạng hơn để có thể phản ánh một cách thích hợp và kịp thời những tiến bộ của xã hội.

Tài liệu tham khảo

  1. “Giáo trình Ngữ văn” – Nguyễn Thiện Giáp – Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội

  2. “Cơ bản về ngôn ngữ học” Ngôn ngữ học và tiếng Việt “- Mai Ngọc Chừ, Vũ Đức Nghiêu, Hoàng Trọng Phiên – Nhà xuất bản Giáo dục
  3. ” Những bài học về ngôn ngữ học “- Nguyễn Thiện Giáp, Đoàn Thiện Thuật, Nguyễn Minh Thuyết, Nhà xuất bản Giáo dục

Nhận xét

.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *