Những người chuẩn bị đón năm Nhâm Dần hãy nghĩ đến biểu tượng con chuột trong ngôn ngữ và văn hóa để hiểu hơn, sâu hơn những quan niệm về loài vật này trong tâm thức người Việt. đó là quá trình giải mã biểu tượng hóa và thần thánh hóa biểu tượng được giao phó qua từng câu nói bình dân trong đời sống văn hóa Việt Nam, nhằm lưu giữ những “báu vật”, những “trầm tích” văn hóa trần tục của ông cha ta. .
chuột được nhìn thấy từ mã ngôn ngữ và tập lệnh
để xác định, tiếng Việt hiện đại có nhiều từ để gọi tên loài vật này: chuột, thử, ty …, với hàng loạt tổ hợp từ dẫn xuất của chuột chù, chuột cống, chuột nhà và chuột đồng. , chuột nút, chuột lang, chuột chũi, chuột chũi, …
Theo học giả An Chi, từ góc độ từ nguyên, chuột là một từ gốc Hán của Việt Nam, còn âm Việt là khăn xếp. chữ Hán (zdic.net) giải thích rằng nó là một loại chuột “giống chuột nhà, nhưng nhỏ, có lông màu vàng, đuôi ngắn và lông đuôi xù” (1). trong tiếng Trung, con chuột được gọi là “thử” và viết trong tiếng Trung là 鼠. cách bạn đặt ra câu hỏi này muốn xác nhận rằng tên rat / rat có nguồn gốc từ Trung Quốc.
về việc tìm ra nguồn gốc tiếng Việt của 12 con giáp, anh Nguyễn cung thông (2) đã có những lý giải khá thú vị khi cho rằng việc tìm hiểu về nguồn gốc tên gọi của 12 con giáp là cơ hội để chúng ta tìm về cội nguồn Việt Nam. . ví dụ, ông cho rằng rat / rat có thể thiết lập mối quan hệ ngữ âm giữa ty / tze (子) và little * mouse, không những vậy, người Việt còn duy trì nhiều mối quan hệ, chẳng hạn như dòng dõi, cũng như dấu vết của han. người Trung Quốc cổ đại ủng hộ khả năng rằng ty / zi (子) là một ký hiệu tiếng nước ngoài, và tất nhiên người Hán không hiểu rằng ty / tzu từng là tên của một con chuột khi nó được nhập vào tiếng Trung Quốc cổ đại. tác giả nêu bằng chứng rằng một dạng cổ của âm tý / t rất gần với âm Việt hiện đại * chökh (chic); Tiếng Khmer dùng dạng * ju: t (mouse) để chỉ chi ty / zi và con chuột; hình thức mon (chak là ngầu) và tuch (khmer) là bit.
các thành viên như vậy, ty hoặc death 子 được đọc là chốt hoặc bit. từ khi peg đổi thành ty, người Việt xưa sợ mất âm nên đọc ghép lại thành bit = peg = mouse = little. hoán vị đọc từ chốt sang chuột là do chốt cận âm – chuột – chuột; và tại sao bạn hoàn thành? chữ ty hay chữ chốt có chữ giáp gần giống chữ “t” là rắn, nên khi dùng chữ “t” thay cho chữ da, người dùng chuyển ngay từ nặng thành sắc. , ở đây chỉ thay đổi âm thanh mà không thay đổi từ và nghĩa. 3).
một cách hiệu quả, mối quan hệ với chuột, chuột, chết, đột ngột, cắm, chuột, v.v. xác định xuất xứ Trung Quốc hay xuất xứ Việt Nam vẫn là câu chuyện chưa có lời giải chưa có câu trả lời cuối cùng.
nâng cao nhận thức về văn hóa
Trong văn hóa Hán, con chuột được coi là biểu tượng của sự trung thực, vị tha, cầu tiến, tính cách điềm đạm và hào hiệp. trong tiếng Hán, chỉ chuột và hổ được gọi một cách kính trọng bằng cách thêm chữ “lão” ở phía trước: lão có nghĩa là chuột và lão hổ có nghĩa là lão hổ. trong khi trong văn hóa phương Tây, chuột được gắn với ý nghĩa xấu xa: kẻ phá hoại, kẻ cướp, người gieo rắc tai họa, bệnh tật. Tiếng Anh cũng có 2 từ cơ bản để chỉ con chuột là “mouse” (dạng số nhiều là “mouse”) và “rat”. ý nghĩa tượng trưng của hai từ này thường mang hàm ý tiêu cực, chẳng hạn như chỉ ra rằng có điều gì đó không ổn (“có mùi như mùi chuột”); biểu thị tình trạng đổ nát, đổ nát (“ngôi nhà rách nát”).
Trong ngôn ngữ và văn hóa Việt Nam, con chuột thường có những ý nghĩa tượng trưng nào?
Con chuột đại diện cho những người khiêm tốn trong cuộc sống. chuột để nghĩ về những người trên cùng một con đường, vì vậy chuột chạy với cùng một cây gậy; chúng không thể là những con chuột chù lém lỉnh, trông “chậm chạp, ngơ ngác, ngu ngơ, bối rối, không biết đường nào mà lần” (4) như chuột chù trong khói, nên khó mong đợi điều gì tốt đẹp. Hình ảnh chú chuột con luôn được dùng để tượng trưng cho một ý tưởng nhỏ nhoi và vô giá trị, giống như mèo mẹ bắt chuột con. thực ra, hiếm có con chuột nào vừa gạo vì đó là hoàn cảnh “may lắm rồi, ấm no, êm ấm” (5). Hoàn cảnh của những người thấp bé trong cuộc sống, giống như cảnh ngộ của những con chuột chạy với một cây gậy, là điều thường thấy.
Con chuột tượng trưng cho những kẻ phá hoại và khai thác công quỹ. ngoài đời, chuột thường được dùng như một hình ảnh ẩn dụ rất quen thuộc để chỉ “lũ chuột”, những kẻ chuyên phá hoại công quỹ. ở đây, tính cách con chuột cũng gắn liền với tính cách của con người trong xã hội.
về hình dáng bên ngoài, chúng là những con dơi đầu chuột; Về hành động của họ, họ thường hành động như dơi và chuột, “ngầm, tự ý làm những việc bẩn thỉu, trái đạo đức” (6); chỉ biết cầm chuột, luôn “lôi kéo, bao che, tạo điều kiện cho người khác làm việc xấu” (7); làm đầu voi đuôi chuột, tức là “thoạt nghe thì to lớn, nhưng cuối cùng chẳng ra gì” (8); về mặt tư tưởng thì luôn vặn vẹo, xoắn xuýt như chuột cắn móng mèo, “hành động liều lĩnh, dại dột” (9); vì anh ta luôn muốn bỏ qua loại chuột đeo vỏ trứng, “mượn hình ảnh người khác để che giấu bản chất của mình” (10).
nên không dễ bắt chuột, nhất là chuột cống. bởi vì, ném chuột còn ghê tởm, vì “muốn quở trách những kẻ gây rối, nhưng lại sợ làm mất lòng những người cai quản chúng” (11). có lẽ đó là cuộc sống, ném con chuột và làm vỡ cái lọ. với những hạng người này, chỉ khi cháy nhà đến chuột thì “mọi mưu đồ của kẻ chủ mưu mới bị bại lộ” (12).
con chuột tượng trưng cho sự khiếm nhã, gian dâm. Trong tiếng Việt, các từ như chim, chuột, quạu… tượng trưng cho sự không đứng đắn, đĩ điếm, tán tỉnh, tán gái của trai gái. tuy nhiên, nhà nghiên cứu An Chi cho rằng thành ngữ “chim chuột” chỉ là “kết quả của sự phiên dịch các yếu tố của một từ ngữ Hán ngữ: dong luu (chim chuột trong cùng một hang động), còn được gọi tắt là bằng chứng của bird (chim chuột) (13), không phải chuyện trai gái, nam nữ. sau này, nhiều người thường cho rằng “chim chuột” là chuyện tán tỉnh, tán tỉnh của trai gái trong các mối quan hệ yêu đương.
Thực tế, nghĩ về biểu tượng con chuột trong ngôn ngữ và văn hóa là cơ hội để hiểu rõ hơn về khái niệm loài vật này trong tâm thức người Việt. đó là quá trình giải mã và thần thánh hóa biểu tượng, được gửi gắm qua từng câu nói bình dân trong đời sống văn hóa Việt Nam, nhằm lưu giữ những “báu vật”, những “trầm tích” của nền văn hóa Việt cổ của cha ông. >
pgs.ts đèn xe chuyển tiếp
(1) an chi, từ mười chi đến 12 con giáp, nhà xuất bản tổng hợp TP. Thành phố Hồ Chí Minh, 2018, tr.32
(2) xem thêm: nguyễn cung thông, nguồn gốc tiếng việt của 12 con giáp: ty / tu / * con / chuột (phần 10a), nguồn: https://ngonnguhoc.org
(3) member como, vietnamese, chủ nhân của chữ i ching và chữ vuông, nhà xuất bản Hồng Đức, 2014, tr.165-166.
(4-10) vu dung, vu quang ha, vu thuy anh.
(11-12) nguyen duc duong.
(13) an chi, phone number, tr.31.