Nón lá được làm bằng nguyên liệu gì

một cái ôm ha

Từ bao đời nay, người Việt Nam đã biết cách đối phó với nắng mưa qua chiếc nón của mình, đó là lý do tại sao có câu: “Nón mua được đồng tiền, lành như rồng mua về mặc đi? để má hồng ăn. ” trong đó, nón lá qua bao đời được coi là biểu tượng đặc sắc của văn hóa nước ta …

“Sống trong khí hậu nhiệt đới gió mùa, nắng nhiều, mưa nhiều nên người Việt Nam đã biết tận dụng rất sớm những nguyên liệu dễ kiếm trong tự nhiên để làm nón. Nhờ nguồn nguyên liệu phong phú nên nón Việt Nam cũng rất đa dạng: nón được lợp bằng lá cọ như lá thốt nốt, lá rui, lá úa hoặc lá rời, lá dứa, lá dừa… nón được dệt kim. rơm, nan giang, thận ghép hay còn gọi là nón lá. Những nguyên liệu này có ở khắp ba miền đất nước, nên ở đâu cũng có những vùng, nghề làm nón nổi tiếng: nón thúng nghệ, nón ngựa Bình Định, nón thơ huệ, nón thúng – hà nội… ”(1).

IMG 3454

chiếc nón lá gắn liền với sự cần cù, chịu khó của người phụ nữ nông thôn. ảnh: duy khoi

vì vậy, nón lá là sự sáng tạo của người thợ trong việc tận dụng môi trường tự nhiên để tạo ra chiếc nón, góp phần bảo vệ sức khỏe, chống chọi với thời tiết, với thiên nhiên khắc nghiệt. Chiếc nón lá tuy đơn sơ, giản dị nhưng đã giúp bao người che nắng, che mưa; Đồng thời, hình ảnh chiếc nón lá còn thể hiện nét văn hóa của cư dân nông nghiệp, giúp tô điểm thêm nét dịu dàng, duyên dáng của người phụ nữ Việt Nam.

Theo các nguồn tư liệu lịch sử, từ xưa, ở làng ma lei, thuộc xã hồng châu (hải hưng, hải phòng) đã có một loại mũ gọi là ma lei. Thời của le chiếu, người ta chọn những chiếc lá nhỏ để làm nón, thời sơ khai nón lá có nhiều kiểu dáng, dành cho nhiều tầng lớp dân cư khác nhau, từ giàu đến nghèo, từ quan chức cao đến công chức. Vào thế kỷ thứ 10, nón lá thực sự đã có hình dáng, thể hiện sự duyên dáng, thanh lịch cho người mặc. cũng trong thời kỳ này, các địa phương khác nhau: cao bang, thanh hóa, huệ, v.v. họ đã sáng tạo ra những kiểu dáng riêng, đặc trưng của nón lá quê hương, góp phần tạo nên sự đa dạng cho nón lá Việt Nam.

“Có lẽ chỉn chu là người đầu tiên nói đến chiếc nón của Việt Nam. đó là sự miêu tả về chiếc “lăng la” (nón lá hình con ốc) của người Việt trong “linh đình ngoại quốc” năm 1178. Sau đó vào năm 1307 ma doan lam dựa theo chu chu phi, được mô tả lại trong ” văn học thành văn ”. hiến tặng ”như sau: nón hình xoắn ốc, hình con ốc… đẽo rất đẹp bằng những lát tre mỏng. […] Những hình ảnh đầu tiên về nón lá của người Việt được ghi lại trong tranh “Truc lam dai dai son do” do tran giam tu nam 1363. Trong tranh co the quan sat hai nguoi: nguoi hat hai loai hat hinh khac nhau: mui thom, mui cao. người đàn ông thứ hai đội một chiếc mũ rộng vành nhưng nhọn .. ”(2).

ở miền nam, nón lá cũng được nhắc đến khá sớm. nón lá cùng với các trang phục khác như áo, váy, nơ… đã từng là một nét văn hóa đặc trưng của người dân xứ này. điều này đã được cụ ghi lại trong “gia định thành thông chí” như sau: “chỉ người Việt theo lệ cũ phân định mệnh lệnh: quan đội khăn cao sơn, áo sơ mi không cổ, đi giày da. tầng lớp trung lưu chải đầu, đi chân đất, trai gái đều mặc áo cộc tay, xẻ nách (…), đội mũ to, hút thuốc lá, ở nhà ngồi xổm, trải trải chiếu, ngồi bệt, không có bàn ghế ”(3).

***

có lẽ dáng người phụ nữ Việt Nam mảnh mai, mảnh mai, phù hợp với nón lá, nên từng chút một loại nón này đã được phát triển trên khắp mọi miền đất nước, từ thành thị đến nông thôn, từ nhà giàu đến chân đất đều được sử dụng làm nón của mình. . đồ trang sức. Nếu chiếc áo dài trở thành biểu tượng bản sắc của văn hóa Việt Nam thì nón lá cũng có sức mạnh chinh phục riêng, tạo thành một biểu tượng văn hóa đặc trưng. ở thành thị, nón lá thường đi cùng với áo dài, cả hai kết hợp với nhau tạo nên nét thanh thoát, đài các của người phụ nữ Việt Nam. Đặc biệt, những cô gái mặc áo dài trắng, tóc buộc đuôi ngựa hoặc dài ngang vai, đội nón lá thướt tha, thong dong đạp xe mỗi vòng sau giờ tan học đã trở thành hình ảnh của thơ ca, nhạc họa. .

Ở các vùng quê, đặc biệt là vùng quê Nam Bộ, hình ảnh chiếc nón lá, chiếc áo bà ba đã gắn liền với những người dân cần cù từ bao đời nay. nón lá là người bạn đồng hành của các nam thanh nữ tú, thôn nữ … trong cuộc sống và công việc. khi ra đồng, khi đi cày, chiếc nón lá được dùng để che nắng, che mưa, che nắng trưa bên gốc cây cổ thụ. và đặc biệt nón lá là hành trang của những người phụ nữ phố thị trong những phiên chợ đông hay dùng để đựng mấy củ khoai, củ kiệu, mớ rau muống chợ chiều … làm nổi bật nét dịu dàng, đôn hậu, dung dị. để đau đớn và đau khổ. của các cô gái trong làng.

vì vậy, có lý khi nói rằng: “nón lá và chiếc ghe bầu đã trở thành vật bất ly thân của người dân miền Tây Nam Bộ:

THAO7282 Thiếu nữ với áo bà ba và nón lá. Ảnh: DUY KHÔI

Nào khi anh dỗ chẳng nghe,

Bây giờ, hãy đội mũ của bạn và chèo thuyền để tìm nó.

Mũ là một phương tiện để bày tỏ tình yêu thương:

Tôi thích bạn đội chiếc mũ này,

Về nhà bố mẹ hỏi, qua cầu gió bay.

và như một cái cớ để tức giận, hãy thử:

Năm ngoái, tôi đã làm khá tốt,

năm nay nghèo quá không thể đội nón lá

mở biên giới.

dây đai bị gãy nên mũ lung lay,

xin anh ấy đồng bạc để mua một chiếc mũ đẹp

thiết bị trò chơi ”(4).

Tóm lại, nón lá, ngoài chức năng che mưa, che nắng còn được các thế hệ phụ nữ Việt Nam coi là vật trang sức, là biểu tượng văn hóa góp phần hình thành nên vẻ đẹp thanh lịch, mềm mại nhưng không kém phần thanh lịch. “Tuy chỉ là một vật dụng đơn giản nhưng sau hàng trăm năm gắn bó, chiếc nón lá đã được người tạo ra nó và người mặc nó truyền lại. từ để đội đầu, đơn giản là để che nắng, che mưa, trở thành một biểu tượng văn hóa giúp xác định bản sắc của cả một dân tộc ”(5).

Ngày nay, người ta làm ra nhiều loại và kiểu dáng mũ, đặc biệt là mũ vải vừa thoải mái, sạch sẽ, vừa hiện đại và rất được ưa chuộng. tuy nhiên, nón lá Việt Nam vẫn tồn tại và âm thầm phát triển, hầu như nhà nào cũng có chiếc nón lá được bà hoặc mẹ treo ở một góc để hàng ngày đi chợ, đi chợ. nón lá cũng xuất hiện với nhiều hình thức đẹp, thẩm mỹ, sáng tạo về kích cỡ, hoa văn nhúng nón … ở hầu hết các điểm du lịch trên cả nước, theo chân du khách thập phương …

(1) bui quang thang (2018), duyên xưa, lao công biên tập, tr.52.

(2) bui quang thắng, sđt, tr.56-57.

(3) trinh hoai duc, gia dinh a thong chi, bản dịch của tu trai nguyen tao. nhà văn hóa – thư ký chính phủ – phụ trách văn hóa xuất bản năm 1972, tập hạ, tr. 6.

(4) tran ngoc than (chủ biên), Văn hóa Việt Nam miền Tây Nam Bộ, NXB Văn hóa – Văn nghệ, tr.478.

(5) bui quang thang, sđt, tr.54.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *