Biểu hiện bên ngoài của đời sống xã hội tư bản chủ nghĩa, người lao động làm việc cho nhà tư bản trong một thời gian nhất định, họ sản xuất ra một lượng hàng hoá hoặc chuyển chúng thành một số công việc nhất định, tiền công của nhà tư bản đem lại cho người lao động một lượng nhất định tiền gọi là tiền lương. hiện tượng này khiến người ta nghĩ rằng tiền công là giá cả của sức lao động. sự thật là tiền lương không phải là giá trị hay giá cả của sức lao động, bởi vì sức lao động không phải là hàng hóa. điều này là do:

Nếu sức lao động là hàng hoá thì trước hết nó phải tồn tại, nó phải hiện thực hoá dưới một hình thức cụ thể nào đó. tiền đề cho việc vật chất hoá công việc là tư liệu sản xuất. nhưng nếu người lao động có tư liệu sản xuất, họ sẽ bán hàng hóa do họ sản xuất ra, chứ không phải là “sức lao động”. việc thừa nhận sức lao động là hàng hóa dẫn đến một trong hai mâu thuẫn lý thuyết sau đây:

thứ nhất, nếu sức lao động là hàng hóa và được trao đổi ngang giá thì nhà tư bản không tạo ra lợi nhuận (giá trị thặng dư); điều này phủ nhận sự tồn tại thực sự của quy luật giá trị thặng dư trong chủ nghĩa tư bản.

Thứ hai, nếu “hàng hóa sức lao động” được trao đổi một cách bất bình đẳng để thu được giá trị thặng dư cho nhà tư bản, thì quy luật giá trị phải bị phủ nhận.

Nếu sức lao động là hàng hóa thì nó cũng phải có giá trị. nhưng công việc là thực thể và thước đo nội tại của giá trị, bản thân công việc không có giá trị. do đó, công việc không phải là hàng hóa, cái mà người công nhân bán cho nhà tư bản là sức lao động. do đó, tiền công mà nhà tư bản trả cho người lao động là giá cả của sức lao động.

Như vậy, thực chất của tiền lương trong chủ nghĩa tư bản là hình thức tiền tệ biểu hiện giá trị sức lao động hay giá cả sức lao động, nhưng bề ngoài nó được biểu hiện dưới dạng giá cả sức lao động. .

dạng biểu thức đó đã gây ra nhầm lẫn. đó là do các sự kiện sau:

trước hết, đặc điểm của sức lao động hàng hóa là nó không bao giờ tách khỏi người bán, nó chỉ nhận được giá cả khi nó đã cung cấp các giá trị sử dụng cho người mua, tức là sức lao động cho nhà tư bản, do đó, bề mặt, chỉ có nhà tư bản trả giá trị sức lao động. Thứ hai, đối với người lao động, công việc toàn thời gian là một phương tiện kiếm sống nên bản thân người lao động cho rằng mình đang bán công việc của mình. trong khi các nhà tư bản bỏ tiền ra để có được việc làm, họ cũng nghĩ rằng những gì họ mua là công việc. Thứ ba, tiền lương phụ thuộc vào thời gian lao động hoặc số lượng sản xuất, dẫn đến người ta lầm tưởng rằng tiền lương là giá cả của sức lao động.

tiền lương che giấu bất kỳ dấu vết nào của việc phân chia ngày làm việc thành thời gian lao động cần thiết và thời gian lao động thặng dư, thành công việc được trả lương và không được trả công, do đó che giấu bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản.

Tiền lương có hai dạng cơ bản, lương thời gian và lương sản phẩm.

Tiền lương theo thời gian là hình thức trả lương cao hơn hoặc thấp hơn tùy thuộc vào thời gian làm việc của người lao động dài hay ngắn (giờ, ngày, tháng).

Bạn cần phân biệt lương theo giờ, lương ngày, lương tuần và lương tháng. Không rõ lương ngày và lương tuần cao hay thấp, vì còn phụ thuộc vào ngày làm việc dài hay ngắn. do đó để đánh giá chính xác mức lương không chỉ dựa vào lương ngày mà còn phải căn cứ vào thời gian làm việc và cường độ làm việc. giá của một giờ làm việc là thước đo chính xác tiền lương theo thời gian.

tiền lương sản phẩm là một dạng tiền lương mà tiền lương phụ thuộc vào số lượng sản phẩm hoặc các bộ phận của sản phẩm do người lao động sản xuất ra hoặc khối lượng công việc đã hoàn thành.

mỗi sản phẩm được trả theo một đơn giá nhất định. đơn giá tiền lương được xác định bằng tỷ số giữa tiền lương bình quân của một công nhân trong một ngày và số sản phẩm bình quân của một công nhân sản xuất ra trong một ngày, vậy về bản chất, đơn giá là tiền lương được trả trong thời gian bao lâu. lấy để sản xuất một sản phẩm? do đó, tiền lương sản phẩm là sự thay đổi tiền lương theo thời gian.

Việc áp dụng tiền lương tính theo sản phẩm một mặt giúp nhà tư bản quản lý và kiểm soát dễ dàng hơn quá trình lao động của công nhân; mặt khác, khuyến khích người lao động tích cực lao động, khẩn trương tạo ra nhiều sản phẩm để nhận lương cao hơn.

Tiền lương danh nghĩa là số tiền mà người công nhân nhận được khi bán sức lao động của mình cho nhà tư bản. Vì tiền lương được sử dụng để tái sản xuất sức lao động nên tiền lương danh nghĩa phải được chuyên môn hóa thành tiền lương thực tế.

tiền lương thực tế là tiền lương được biểu thị bằng số lượng hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng mà người lao động mua với mức lương danh nghĩa của họ.

tiền lương danh nghĩa là giá cả sức lao động, vì vậy nó có thể tăng hoặc giảm tùy thuộc vào sự biến động của tỷ lệ cung cầu của hàng hóa sức lao động trên thị trường. trong một khoảng thời gian, nếu tiền lương danh nghĩa không thay đổi, nhưng giá cả hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng tăng hoặc giảm, thì tiền lương thực tế sẽ giảm hoặc tăng lên.

tiền lương là giá cả của sức lao động, vì vậy sự vận động của nó gắn liền với sự thay đổi giá trị của sức lao động. lượng giá trị sức lao động chịu sự tác động của các nhân tố có tác động ngược chiều. các yếu tố làm tăng giá trị sức lao động như: trình độ chuyên môn của người lao động được nâng cao, cường độ lao động tăng, cầu tăng cùng với sự phát triển của xã hội. yếu tố làm giảm giá trị sức lao động, tức là năng suất lao động tăng lên làm hạ giá vật tư tiêu hao. sự tác động qua lại của các yếu tố này dẫn đến một quá trình thay đổi phức tạp về giá trị sức lao động, dẫn đến sự biến động phức tạp của tiền lương thực tế.

Tuy nhiên, c. Các Mác đã chỉ ra rằng khuynh hướng chung của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa không phải là tăng tiền lương bình quân mà là hạ thấp nó. bởi vì trong quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản, tiền lương danh nghĩa có xu hướng tăng lên, nhưng sự tăng của nó đôi khi không đi kèm với sự tăng giá của hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng; Đồng thời, thất nghiệp là hiện tượng thường xuyên, làm cho cung lao động làm công ăn lương vượt quá cầu lao động, điều này cho phép nhà tư bản mua sức lao động dưới giá trị của nó, do đó tiền lương thực tế của giai cấp công nhân có xu hướng giảm.

nhưng sự sụt giảm tiền lương thực sự chỉ xảy ra như một xu hướng, bởi vì có những yếu tố phản đối sự sụt giảm tiền lương. một mặt, đó là cuộc đấu tranh đòi tăng lương của giai cấp công nhân. Mặt khác, trong điều kiện của chủ nghĩa tư bản hiện nay, do tác động của cách mạng khoa học – công nghệ, nhu cầu lao động chất lượng cao ngày càng lớn đã buộc giai cấp tư sản phải cải tiến, tổ chức công việc và kích thích người lao động bằng lợi ích vật chất. nó cũng là một yếu tố làm chậm xu hướng giảm lương.

trên đây là nội dung bài 3: tiền công trong chủ nghĩa tư bản mà elib chia sẻ cùng các bạn học sinh. Hi vọng đây sẽ là tài liệu hữu ích giúp các bạn hiểu rõ hơn về nội dung bài học.