1. Quyền lực của nhà nước bao gồm các nhánh lập pháp, hành pháp và tư pháp. trong đó quyền lập pháp (làm luật) do nghị viện (quốc hội) thực hiện, quyền hành pháp (thi hành luật) do chính phủ thực hiện, và quyền tư pháp (phán quyết – áp dụng luật) do tòa án thực hiện. Ở các nước tổ chức bộ máy nhà nước theo mô hình tam quyền phân lập, các quyền trên được tách bạch và giao cho 3 cơ quan độc lập khác nhau thực hiện và từ đó gắn kết, kiểm tra, giám sát hoạt động của mỗi bên. ở nước ta quyền lực nhà nước là thống nhất nhưng vẫn có sự phân bổ, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, trong đó Quốc hội thực hiện quyền hạn của mình, quyền lập hiến, quyền lập pháp; chính phủ là cơ quan hành chính tối cao của nhà nước thực hiện quyền hành pháp, cơ quan hành pháp của quốc hội, toà án nhân dân là cơ quan xét xử và thực hiện quyền tư pháp. do đó, về nguyên tắc chung, chỉ có quốc hội (quốc hội) mới có quyền lập pháp (quyền làm luật) nhưng vẫn có những trường hợp ngoại lệ. ngoại lệ đó là tiền lệ hoặc tiền lệ, một dạng luật do tòa án tạo ra.
2. án lệ hay án lệ là hình thức luật, theo đó bản án, quyết định của Tòa án được nhà nước công nhận, làm mẫu mực, cơ sở để đưa ra phán quyết đối với các vụ, việc sau này có hoàn cảnh, vấn đề tương tự. đó là quy trình pháp lý của tòa án trong việc công nhận và áp dụng các nguyên tắc mới trong quá trình xét xử.
3. đó là lý do tại sao tòa án với tư cách là cơ quan xét xử, cơ quan áp dụng luật tạo ra luật trong khi có quốc hội (quốc hội) là cơ quan lập pháp chuyên trách. Điều này là vì hai lý do:
– Thứ nhất, đó là sự lạc hậu “tương đối” của pháp luật so với các quan hệ xã hội mà nó điều chỉnh. pháp luật ra đời để điều chỉnh các quan hệ xã hội, nhưng pháp luật có tính ổn định tương đối, đồng thời các quan hệ xã hội luôn vận động và phát triển không ngừng. Các nhà lập pháp dù có tầm nhìn xa đến đâu cũng không thể điều chỉnh được mọi quan hệ xã hội. do đó, giữa luật và thực tiễn luôn tồn tại khoảng cách, hay nói cách khác là khoảng cách pháp lý, tòa án với tư cách là cơ quan thực thi pháp luật sẽ gặp khó khăn khi có những tranh chấp cần thiết được giải quyết nhưng không có luật để áp dụng.
tiền lệ được tạo ra vì lý do này được gọi là tiền lệ chuẩn.
– Thứ hai, pháp luật là những quy tắc xử sự điển hình, được đa số chấp nhận, mang tính quy phạm, ổn định, rất khái quát và trừu tượng trong khi các mối quan hệ xã hội rất đa dạng, phong phú, đa dạng nên đôi khi tuy có luật nhưng lại không chi tiết. đủ để áp dụng cho mọi tình huống cụ thể. do đó, khi ra phán quyết, thẩm phán phải tìm ra giải pháp cho một vấn đề pháp lý chưa được quy định cụ thể. Đối với những vụ án đã có quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ tranh tụng thì luật học được tạo ra là sự đáp ứng việc áp dụng các quy phạm pháp luật có những nguyên tắc chung trong một vụ án cụ thể. tiền lệ trường hợp được tạo ra từ mô-típ này được gọi là tiền lệ giải thích.
4. tuy nhiên, không phải mọi phán quyết và quyết định của tòa án đều trở thành tiền lệ. để trở thành luật học, một câu phải đáp ứng các yếu tố cơ bản sau:
– Phải có vấn đề về luật: nội dung của câu được coi là luật phải liên quan đến câu hỏi của luật, khi câu hỏi của luật rõ ràng, thẩm phán áp dụng luật đã có trước các trường hợp thực tế. các tình tiết trong vụ án, các phán quyết trong các vụ án này không tạo ra tiền lệ. Một trong những yếu tố quan trọng trong việc tạo ra luật pháp là quyết định của thẩm phán trong một vụ án cụ thể liên quan đến các vấn đề pháp lý mới nổi hoặc một vấn đề pháp lý. đó là những câu hỏi liên quan đến câu hỏi điều luật nào nên được áp dụng cho tình tiết thực tế phát sinh trong vụ án và nó được áp dụng như thế nào đối với tình tiết thực tế trong vụ án. trên thực tế, vấn đề là luật không có câu trả lời cho câu hỏi thực tế. do đó, bằng phán quyết, thẩm phán cần tìm ra giải pháp cho vấn đề pháp lý được đặt ra trong vụ án. điều này cũng có nghĩa là phán quyết của thẩm phán trong trường hợp cụ thể này đã tạo ra một tiền lệ (tiền lệ pháp) cho các trường hợp sau này.
– phải có ý kiến: bản án phải thể hiện được thái độ, quan điểm của thẩm phán hoặc các thẩm phán trong hội đồng xét xử về vấn đề pháp lý đưa ra. nếu không có ý kiến thì cách giải quyết trong câu không thể trở thành án lệ (vì có thể hiểu án lệ dưới góc độ vụ án được xét xử như thế nào). Quan điểm và thái độ của thẩm phán sẽ được chấp nhận trước một câu hỏi pháp lý mới nảy sinh trong một vụ án khi các lập luận của thẩm phán đưa ra trong luật học phải hợp lý và hợp lý về mặt pháp lý.
– phải xuất phát từ tranh chấp: Tiền lệ do thẩm phán tạo ra phải xuất phát từ tranh chấp giữa các bên trong vụ án. điều này có nghĩa là án lệ được tạo ra trong bối cảnh tranh chấp xác định. thẩm phán chịu trách nhiệm đưa ra quyết định trong tranh chấp giữa các bên, theo cách này, thẩm phán đã tạo ra luật trong một trường hợp cụ thể.
– phải có thẩm quyền: tiền lệ của vụ án được tạo ra bởi một tòa án có thẩm quyền. án lệ được xác lập tại tòa án, tuy nhiên không phải tòa án nào cũng tạo ra tiền lệ mà bản án, quyết định của tòa án có thẩm quyền đáp ứng đủ điều kiện trở thành án lệ.
– phải được xuất bản và hệ thống hóa: các bản án phải được công bố và hệ thống hóa. Việc công bố và hệ thống hóa lý lịch của các vụ án phải tuân theo một trình tự thủ tục nghiêm ngặt.
5. án lệ chiếm một vị trí quan trọng trong hệ thống pháp luật Anh-Mỹ. Hình thức luật này được sử dụng rộng rãi trên thế giới, nó là nguồn chính và quan trọng trong hệ thống thông luật bao gồm các nước thuộc Khối thịnh vượng chung Anh, Hoa Kỳ (trừ các bang Louisiana), Canada (trừ bang Quebec) và các thuộc địa cũ của nó và các lãnh thổ được ủy nhiệm của Hoa Kỳ. Trong hệ thống dân luật hay còn gọi là luật dân sự (như ở một số nước Pháp, Đức, Ý …), hình thức này chỉ được coi là nguồn thứ cấp.