hệ thống các mục tiêu của chính sách tiền tệ bao gồm: mục tiêu cuối cùng, mục tiêu trung gian và mục tiêu hoạt động.

– các mục tiêu cuối cùng là những biến số cuối cùng mà các nhà hoạch định chính sách muốn đạt được khi điều chỉnh các công cụ chính sách tiền tệ. mục tiêu cuối cùng của chính sách tiền tệ có thể là: lạm phát thấp và ổn định, tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm, ổn định thị trường tài chính, ổn định lãi suất, ổn định thị trường ngoại hối.

– các mục tiêu trung gian bao gồm các chỉ số do ngân hàng trung ương lựa chọn để đạt được mục tiêu cuối cùng của chính sách tiền tệ. Việc lựa chọn chỉ số nào để sử dụng làm mục tiêu trung gian tùy thuộc vào từng quốc gia, nhưng các chỉ số này phải đáp ứng ba tiêu chí sau: (i) chúng có thể được đo lường một cách chính xác; (ii) nhtw có sự kiểm soát kịp thời; (iii) có mối quan hệ chặt chẽ với mục tiêu cuối cùng và mục tiêu hoạt động. Một số mục tiêu trung gian mà các quốc gia thường lựa chọn bao gồm: cung tiền, lãi suất và tỷ giá hối đoái. sự sai lệch của các biến này so với giá trị kỳ vọng có thể có nghĩa là sự sai lệch của mục tiêu cuối cùng so với giá trị mục tiêu và do đó, làm thay đổi kết quả của việc thực hiện chính sách tiền tệ.

– Mục tiêu hoạt động của chính sách tiền tệ là các biến số tiền tệ mà ngân hàng có thể tác động hoặc kiểm soát trực tiếp hơn các mục tiêu trung gian, do đó ảnh hưởng đến mục tiêu cuối cùng của chính sách tiền tệ. Tương tự như mục tiêu trung gian, tiêu chí để lựa chọn một chỉ số làm mục tiêu hoạt động bao gồm các điều kiện sau: (i) chỉ tiêu đó phải đo lường được để tránh những suy luận thiếu chính xác làm sai lệch dấu hiệu của mục tiêu cstt; (ii) nó phải có mối quan hệ trực tiếp và ổn định với các công cụ chính sách tiền tệ; (iii) có mối quan hệ trực tiếp và ổn định với mục tiêu trung gian đã chọn. Các chỉ số mà các ngân hàng thường chọn làm mục tiêu hoạt động bao gồm: số liệu dự trữ ngân hàng (như tổng dự trữ, dự trữ đi vay hoặc dự trữ không vay); lãi suất ngắn hạn (như lãi suất liên ngân hàng qua đêm, lãi suất tái cấp vốn, lãi suất đặt thầu thị trường mở); chỉ số điều kiện tiền tệ kết hợp các biến số lãi suất và tỷ giá hối đoái.

Việc lựa chọn cstt mục tiêu được coi là vấn đề quan trọng và khó khăn nhất trong quá trình xây dựng và thực hiện cstt, nó quyết định hiệu lực hay hiệu quả của chính sách tiền tệ. do đó, có thể nói mục tiêu của chính sách tiền tệ quyết định toàn bộ khuôn khổ (hay chiến lược) của chính sách tiền tệ. Việc lựa chọn các mục tiêu CSTT thích hợp được xác định bởi tính cấp thiết của mục tiêu, mức độ đánh đổi giữa các mục tiêu và khả năng đạt được mục tiêu.

lịch sử quản lý của cst cho thấy rằng nhtw có thể chọn vận hành chính sách tiền tệ đa mục tiêu hoặc vận hành một đơn vị tiền tệ mục tiêu. vận hành một cơ sở dữ liệu đa năng thường được coi là một phong cách hoạt động “truyền thống”. Các quốc gia có xu hướng lựa chọn CSTT để theo đuổi nhiều mục tiêu, chẳng hạn như ổn định giá cả, tăng trưởng kinh tế và tạo việc làm. tuy nhiên, vấn đề là nhtw không thể đạt được tất cả các mục tiêu này cùng một lúc vì có sự mâu thuẫn giữa các mục tiêu ngắn hạn. do đó, tùy theo đặc điểm kinh tế của từng thời kỳ cũng như tính cấp thiết của các mục tiêu, nhtw sẽ xem xét thứ tự ưu tiên của từng mục tiêu trong ngắn hạn. Ví dụ, trong trường hợp bình thường, ưu tiên chính của ngân hàng trung ương các nước là ổn định giá cả, kiểm soát lạm phát. tuy nhiên, trong bối cảnh kinh tế suy thoái hoặc khủng hoảng, nền kinh tế có dấu hiệu tăng trưởng chậm lại, tỷ lệ thất nghiệp gia tăng, NHTW có thể can thiệp để chống suy thoái kinh tế và giảm tỷ lệ thất nghiệp. do đó, nhtw ưu tiên theo đuổi tăng trưởng kinh tế và tạo việc làm.

Thông thường, trong ngắn hạn, nhtw tuân theo chính sách đa mục tiêu và ưu tiên từng mục tiêu trong một giai đoạn cụ thể. nếu các ngân hàng chọn mục tiêu cuối cùng là mục tiêu duy nhất thì đó chắc chắn là mục tiêu ổn định giá vì ổn định giá là phương tiện để đạt được mục tiêu cuối cùng là thúc đẩy tăng trưởng kinh tế một cách vững chắc [1]. nhtw không thể chọn tăng trưởng cao làm mục tiêu cuối cùng vì bất kỳ tăng trưởng kinh tế cao nào cũng sẽ dẫn đến tăng tổng phương tiện thanh toán trong nền kinh tế, và đây là mầm mống cho lạm phát gia tăng. tuy nhiên, nhtw không thể loại bỏ mục tiêu tăng trưởng kinh tế vì nếu không có tăng trưởng kinh tế thì việc theo đuổi tỷ lệ việc làm cao thực sự vô nghĩa. nền kinh tế có thể có toàn dụng lao động khi đầu tư tăng lên, số lượng và quy mô các công ty phát triển. nhưng giả sử rằng việc lựa chọn mục tiêu cuối cùng là mục tiêu kép, tức là vừa đảm bảo lạm phát thấp, vừa đảm bảo tăng trưởng kinh tế cao thì vấn đề càng trở nên phức tạp. một nền kinh tế tăng trưởng cao khó có thể có lạm phát thấp. Trên thực tế, mâu thuẫn giữa mục tiêu lạm phát thấp và mục tiêu tăng trưởng kinh tế cao là một rào cản lớn khiến ngân hàng trung ương phải lựa chọn mục tiêu cuối cùng kép. tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, do áp lực của chính quyền, ngân hàng trung ương có thể theo đuổi mục tiêu cuối cùng kép là lạm phát thấp và tăng trưởng kinh tế cao. Vấn đề lạm phát thấp không có nghĩa là lạm phát quá thấp, bởi nếu lạm phát duy trì ở mức quá thấp sẽ dẫn đến nguy cơ giảm phát, làm tăng tỷ lệ vỡ nợ. Trở ngại Lạm phát phải ở mức thấp nhưng ổn định để kích thích đầu tư và duy trì tăng trưởng kinh tế. Điều này có nghĩa là lạm phát thấp nhưng lạm phát thấp và ổn định, tăng trưởng kinh tế cao cũng không được hiểu là tăng trưởng “nóng” mà là tăng trưởng cao và bền vững. Giả sử tăng trưởng kinh tế thực cao hơn tốc độ tăng trưởng ổn định thì đó là nền kinh tế phát triển quá nóng, nền kinh tế dù có thịnh vượng đến mấy cũng không thể duy trì mãi được vì thịnh thì suy. thoát ra.

Chính sách tiền tệ mục tiêu duy nhất là chính sách tiền tệ theo đuổi một mục tiêu duy nhất và cũng là mục tiêu cuối cùng. Tất nhiên, mục tiêu cuối cùng là mục tiêu lạm phát thấp vì một nền kinh tế không kiểm soát được lạm phát đồng nghĩa với việc rơi vào tình trạng bất ổn về kinh tế và xã hội. So với chính sách tiền tệ đa mục tiêu, điều hành chính sách tiền tệ đơn mục tiêu có nhiều ưu điểm hơn vì: (i) chỉ có một mục tiêu duy nhất nên nhtw sẽ có thể lựa chọn các công cụ có trọng lượng và quyết định nhất để tác động và đạt được mục tiêu đó; (ii) thước đo hiệu quả của nhtw rõ ràng và cụ thể; (iii) tạo điều kiện tốt hơn cho việc xây dựng và thực hiện các chính sách nhtw, tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện các kỳ vọng; (iv) do một mục tiêu duy nhất, hiệu quả của mục tiêu này sẽ tạo cơ sở cho việc thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô khác [2]

hệ thống mục tiêu của chính sách tiền tệ