phiên bản đầu tiên

còn nhớ, vào cuối tháng 12 năm 2003, trên các phương tiện truyền thông xuất hiện thông tin ngân hàng nhà nước đã phát hành đồng xu 500.000 đồng và 50.000 đồng làm bằng chất liệu cao phân tử. Tại các trụ sở ủy ban xã (khu phố), quận (huyện) trong cả nước, áp phích quảng cáo thông báo phát hành tiền và đặc điểm của loại tiền mới mà ngân hàng nhà nước sẽ phát hành. Vào thời điểm đó, nhiều người, đặc biệt là những người đã từng trải nghiệm và chứng kiến ​​những bản phát hành trước thường rất “bí”, chỉ công bố vào ngày phát hành chính thức rồi ngưng sản xuất ngay. sự lưu hành của tiền cổ là khá đáng ngạc nhiên. Không như lần này, NHNN đã tích cực tuyên truyền bằng nhiều hình thức tới công chúng trước ngày phát hành chính thức 15-20 ngày để người dân kịp thời có thông tin đầy đủ về đồng tiền mới, không bị bất ngờ khi tiếp nhận và sử dụng.

Tuy nhiên, sau khi ra mắt, đồng tiền polyme đã vấp phải sự chỉ trích trái chiều từ dư luận về chất lượng, thậm chí có ý kiến ​​cho rằng việc phát hành đồng tiền polyme là điều tốt, đắt và đắt so với điều kiện kinh tế của đất nước. Đặc biệt, có tin đồn cho rằng tiền polymer là loại tiền kém chất lượng, ảnh hưởng đến tâm lý của người tiêu dùng.

Sau khi điều tra sự việc, Ngân hàng Nhà nước đã nhận định rằng sở dĩ có hiện tượng trên là do tâm lý người dân quen sử dụng đồng tiền cotton đã bị dính nên khi chuyển sang sử dụng tiền làm bằng cotton, polyme mới có một số đặc điểm khác vẫn còn hơi ngạc nhiên, nó vẫn chưa được điều chỉnh cho phù hợp với đơn vị tiền tệ mới.

Tiền polyme tích hợp các ưu điểm vượt trội về bảo mật, chống làm giả, bền, sạch …

ấn tượng khó quên

Để giúp người dân cảm thấy an toàn khi sử dụng đồng tiền mới, ngân hàng nhà nước đã nhanh chóng công bố thông tin về các đặc điểm khác biệt của tiền polymer so với tiền cotton, thông báo cho người dân về chất lượng của tiền polymer, cũng như các vấn đề và mối quan tâm. của xã hội, như việc sử dụng và bảo tồn các loại tiền in trên chất liệu cao phân tử … như vậy, những nghi ngại, e ngại ban đầu đã sớm tan biến, tâm lý người dân nhanh chóng ổn định, vững vàng và yên tâm hơn khi sử dụng đồng tiền polymer mới.

18 năm đã trôi qua kể từ khi đồng tiền polymer đầu tiên được phát hành. Giờ đây, nhìn lại chặng đường đi vào cuộc sống của tiền polymer có dấu phát hành, chúng ta càng thấy rõ hơn tính ưu việt, lợi ích, hiệu quả kinh tế của nó và có những quyết sách phù hợp, mang lại giá trị sử dụng, độ bền, tính thẩm mỹ của đồng tiền Việt Nam trong quá trình hội nhập. và phát triển.

Đầu những năm 2000 là một trong những dấu mốc đáng nhớ trong lịch sử tiền tệ Việt Nam. tiền giả đang là vấn nạn toàn cầu, không loại trừ quốc gia nào và nó trở thành thách thức đối với các tổ chức phát hành tiền và thực thi pháp luật. Trên thế giới có tình trạng một số đồng tiền ngay sau khi phát hành, như đồng euro, 6 tháng sau khi phát hành, đã bị làm giả đến mức rất tinh vi. Tại Việt Nam, chỉ sau 1 năm kể từ khi phát hành đồng tiền cotton 100.000 đồng, tiền giả đã xuất hiện và rất nhanh sau đó, loại tiền giả này đã đạt mức khá giống tiền thật. Tiền giả bị phát hiện, thu giữ ngày càng gia tăng với phương thức, thủ đoạn làm giả, lưu thông ngày càng tinh vi, ảnh hưởng đến an ninh tiền tệ và ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của các tổ chức, cá nhân trong xã hội.

yêu cầu đặt ra đối với cơ quan phát hành tiền là ngân hàng nhà nước lúc bấy giờ phải có giải pháp căn cơ và mạnh mẽ để ngăn chặn ngay vấn nạn tiền giả. Trước yêu cầu này, Ngân hàng Nhà nước đã đánh giá việc phát hành tiền polymer là giải pháp tốt nhất. Với việc áp dụng 11-15 tính năng bảo mật, đồng tiền polymer đảm bảo an toàn và bảo mật; thậm chí hệ số an toàn của đồng tiền polymer Việt Nam thời điểm đó còn cao hơn một số đồng tiền mạnh trên thế giới.

Mặc dù đã có 500.000 đồng và 200.000 đồng trên thị trường nhưng qua phân tích và đánh giá của ngân hàng nhà nước, những đồng tiền giả này không có kỹ thuật in tiên tiến; tiền giả có đặc điểm giống tiền thật về hình dáng nhưng không có tính năng bảo mật hoặc làm giả một số đặc điểm nhưng không thể tinh xảo như tiền thật. Nhìn chung, tiền giả polymer cho đến nay có thể phân biệt được bằng tay và mắt thường bằng cách kiểm tra các đặc điểm bảo mật dành cho công chúng (chẳng hạn như vật liệu in, cửa sổ, bóng, dập nổi, mực thay đổi màu, hình ảnh định vị, v.v.). Chất liệu in tiền giả nylon có tính chất giãn hoặc dễ rách khi kéo, hơi rách mép tờ tiền giả, trong khi chất liệu in tiền thật polymer có đặc tính đàn hồi đẳng hướng nên khó bị giãn, rách.

Để bảo vệ tiền Việt Nam, ngân hàng quốc doanh đã phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chức năng như Bộ Công an, Bộ đội biên phòng để đẩy mạnh hoạt động chống hàng giả và bảo vệ tiền Việt Nam. do đó, lượng tiền giả thu giữ được sau khi phát hành tiền polymer giảm mạnh, giai đoạn 2004-2011, tiền giả thu giữ qua hệ thống ngân hàng và kho bạc nhà nước chỉ bằng 24% so với giai đoạn 1997-2004 (trong khi tiền cotton. còn lưu hành), cuối năm 2020, lượng tiền giả thu giữ giảm 93,7% so với năm 2011. Năm 2020 cũng là năm thứ 4 liên tiếp ghi nhận số lượng tiền giả bị thu giữ trong hệ thống ngân hàng. tài sản, kho bạc nhà nước giảm.

ưu điểm vượt trội của tiền polyme

không chỉ có giá trị nêu trên, việc ngân hàng nhà nước phát hành tiền polymer và bổ sung các loại tiền mệnh giá lớn 200.000 đồng và 500.000 đồng cũng có ý nghĩa quyết định trong việc thực hiện chức năng phát hành tiền của ngân hàng trung ương. . Tháng 4 năm 2002, khi ngân hàng nhà nước ngừng phát hành séc thanh toán 500.000 đồng, 1.000.000 đồng và 5.000.000 đồng (loại séc này có giá trị thanh toán trong vòng 3 đến 6 tháng), với sự phát triển của nền kinh tế, nhu cầu tiền tệ của nền kinh tế được sử dụng trong các khoản thanh toán có giá trị danh nghĩa lớn hơn 100.000 vnd là một yêu cầu khách quan cấp thiết. Vì vậy, sự ra đời của đồng tiền polymer mệnh giá lớn 200.000 đồng và 500.000 đồng không chỉ đáp ứng kịp thời nhu cầu thanh toán tiền mặt khách quan trong nền kinh tế, mà còn tiết kiệm chi phí in ấn, phát hành, chi phí đóng gói, kiểm đếm, giao nhận. và vận chuyển. tiền từ hệ thống ngân hàng.

Thực tế sau 18 năm phát hành và sử dụng cho thấy, trong cùng điều kiện lưu thông, sau 3 năm sử dụng đồng tiền cotton cũ, bẩn cần phải thay mới, đồng tiền polymer chất lượng vẫn tốt. Vì vậy, mặc dù chi phí in tiền polymer gấp 1,5 đến 2 lần cotton nhưng tiền polymer có độ bền trong lưu thông cao hơn cotton gấp 4 lần, giúp tiết kiệm thực sự trong việc sử dụng tiền polymer cho ngân sách nhà nước. Ưu điểm về độ bền của tiền polymer so với tiền cotton cũng làm giảm số lượng tiền cần in mỗi năm. điều này chứng tỏ tính hiệu quả và đúng đắn của quyết định sử dụng vật liệu polyme cho các mệnh giá khác nhau trong quá khứ. Cùng với đó, đồng tiền polymer với đặc tính chất liệu vốn có là không thấm nước, hút ẩm nên ít giữ lại tạp chất trong đồng tiền nên đã hạn chế tối đa các tác nhân có hại từ môi trường trong quá trình sử dụng và bảo quản tiền xu.

Không chỉ tích hợp những ưu điểm nổi bật là bảo mật, chống giả, bền, sạch … mà về mẫu mã, tiền polymer còn được đánh giá là có thiết kế “thoáng” hơn rất nhiều. Các chuyên gia thiết kế đánh giá, bộ tiền xu mới được thiết kế tinh tế, mang vẻ đẹp hiện đại pha nét truyền thống do kết hợp các họa tiết trang trí, hoa văn dân tộc, dễ nhận diện với chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh. đặc biệt, lần đầu tiên vật phẩm nhận diện dành cho người khiếm thị được thiết kế bằng tiền Việt Nam.

xu hướng chung trên thế giới

Sau khi Việt Nam phát hành tiền giấy polyme, một số nước cũng đã chuyển sang sử dụng giấy polyme đối với một số mệnh giá hoặc toàn bộ tiền kim loại. Nếu như năm 2003 có khoảng 23 quốc gia sử dụng tiền polymer thì hiện nay con số này đã tăng lên hơn 40 quốc gia, trong đó có hơn 10 quốc gia in cả bộ tiền trên chất liệu polymer. Điều này cho thấy việc sử dụng tiền polymer đang trở thành xu hướng của các ngân hàng trên thế giới. đây cũng là xu hướng chung của thời đại khi nhiều quốc gia trên thế giới chuyển sang phát hành tiền polymer nhờ những lợi ích và hiệu quả chi phí mà chất liệu in tiền polymer mang lại.

và điều đó cũng khẳng định rằng ngân hàng nhà nước Việt Nam đã đi đầu trong việc phát triển công nghệ in tiền trên thế giới từ đầu những năm 2000, xác định rằng đó là sự lựa chọn tối ưu để vượt qua cơn bão tiền giả đang hoành hành ở Việt Nam. thị trường. và thị trường thế giới nói chung tại thời điểm đó. nó cũng cho thấy rõ đây là phương án tối ưu để đảm bảo cân bằng dài hạn giữa chi phí và lợi ích của việc phát hành và lưu thông tiền mặt, cũng như khả năng dự đoán các xu hướng trong tương lai. .

Cục Phát hành và Kho quỹ – Ngân hàng Việt Nam