nguồn gốc của tiền

tiền ra đời là kết quả của quá trình phát triển lâu dài của quá trình sản xuất và trao đổi hàng hoá. quá trình phát triển các hình thức thể hiện giá trị:

& gt; & gt; xem thêm:

  • tiền tệ là gì? bản chất và chức năng của tiền tệ?
  • sức lao động như một hàng hóa đặc biệt
  • chào hàng là gì? nhu cầu là gì? quan hệ cung cầu

– đầu tiên là một dạng giá trị ngẫu nhiên, đơn giản. hình thức này xuất hiện khi xã hội nguyên thủy tan rã và thường chỉ có ở mầm mống đầu tiên của trao đổi. ở đây, giá trị của hàng hóa này chỉ được biểu hiện ở hàng hóa khác và quan hệ trao đổi là ngẫu nhiên, trực tiếp hàng hóa thành hàng hóa, tỷ giá hối đoái được hình thành một cách ngẫu nhiên == & gt; hình thức phôi thai của tiền.

– khi quan hệ trao đổi trở thành quá trình thường xuyên, thường xuyên, thúc đẩy sản xuất hàng hoá ra đời và phát triển thì hình thức thứ hai là hình thức hàng hoá toàn phần hoặc mở rộng. Hình thức này xảy ra trong thực tế khi một hàng hoá nhất định được trao đổi cho nhiều hàng hoá khác một cách phổ biến. ở đây, giá trị của một hàng hóa được biểu hiện ở nhiều hàng hóa khác nhau đóng vai trò ngang giá. đồng thời, tỷ giá hối đoái không còn mang tính ngẫu nhiên nữa mà dần dần do lao động quyết định. tuy nhiên, theo cách này, giá trị của hàng hóa được thể hiện không đầy đủ, thống nhất và thậm chí là hàng hóa – hàng hóa trao đổi trực tiếp.

– do đó, khi sản xuất và trao đổi hàng hoá phát triển, đòi hỏi một hình thức tương đương chung, một hình thức thứ ba đã xuất hiện: hình thức chung của giá trị. theo cách này, giá trị của tất cả các hàng hoá được thể hiện trong một hàng hoá đóng vai trò là vật tương đương phổ quát: “vật tương đương phổ quát”. tất cả các hàng hóa được trao đổi để lấy những thứ tương đương thông thường và sau đó đổi lấy những hàng hóa cần thiết. vật ngang giá chung trở thành vật trung gian. tuy nhiên, theo cách này, bất kỳ hàng hóa nào cũng có thể trở thành một mặt hàng tương đương phổ quát, miễn là nó được tách biệt như một mặt hàng tương đương phổ quát.

Khi sản xuất và trao đổi hàng hóa trở nên phát triển hơn, đặc biệt là khi sự mở rộng giữa các khu vực đòi hỏi sự tương đương chung thống nhất, thì hình thức thứ tư đã ra đời: hình thức tiền. giá trị của tất cả các hàng hoá ở đây được biểu hiện ở một hàng hoá đóng vai trò là tiền tệ. Lúc đầu, có nhiều hàng hóa đóng vai trò như tiền tệ, nhưng dần dần chúng chuyển sang kim loại quý như đồng, bạc và cuối cùng là vàng.

bản chất của tiền

tiền là một hàng hóa đặc biệt được tách biệt như một thứ tương đương chung cho tất cả các hàng hóa. nó là biểu hiện chung của giá trị, đồng thời thể hiện quan hệ sản xuất giữa những người sản xuất hàng hoá.

chức năng tiền

tiền là thước đo giá trị, phương tiện lưu thông, phương tiện cất giữ, phương tiện thanh toán và tiền tệ thế giới:

(i) tiền là thước đo giá trị, tức là nó được sử dụng để đo lường và thể hiện giá trị của các hàng hóa khác. khi đó, giá trị của hàng hoá được biểu hiện bằng một lượng tiền nhất định gọi là giá cả của hàng hoá. giá cả hàng hoá là biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hoá đó. Giá cả hàng hóa có thể tăng và giảm xung quanh giá trị, nhưng tổng giá luôn bằng giá trị.

(ii) tiền đóng vai trò trung gian trong trao đổi hàng hóa, tức là tiền đóng vai trò là phương tiện lưu thông. tại thời điểm đó, trao đổi hàng hóa chuyển động theo công thức h – t – h ‘. đây là một công thức đơn giản cho vận chuyển hàng hóa. Với đặc điểm này, tiền xuất hiện dưới dạng vàng miếng, bạc nén, tiền kim loại và cuối cùng là tiền giấy. tiền giấy là biểu tượng giá trị do nhà nước phát hành và bắt buộc phải được xã hội thừa nhận. tiền giấy không có giá trị thực (bất kể giá trị của chất liệu giấy được sử dụng để làm tiền). Khi thực hiện chức năng này, tiền tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình mua và bán, nhưng nó cũng ngăn cách mua và bán cả về không gian và thời gian, do đó tiềm ẩn khả năng xảy ra khủng hoảng.

(iii) tiền đôi khi được rút ra khỏi lưu thông và cất giữ. chỉ có tiền vàng, đồng bạc và của cải vàng có giá trị thực mới thực hiện được chức năng cất giữ. hơn nữa, tiền với tư cách là phương tiện cất giữ còn có tác dụng đặc biệt là cất giữ tiền để lưu thông.

(iv) tiền làm phương tiện thanh toán có tác dụng thoả mãn nhanh chóng nhu cầu của người sản xuất hoặc người tiêu dùng ngay cả khi họ không có tiền hoặc không có đủ tiền. nhưng nó cũng làm tăng khả năng xảy ra khủng hoảng. Trong quá trình thực hiện chức năng thanh toán, một loại tiền mới đã xuất hiện – tiền tín dụng, tức là một dạng tiền phát triển hơn.

(v) chức năng cuối cùng của tiền tệ là tiền tệ thế giới. chức năng này xuất hiện khi thương mại vượt ra khỏi biên giới quốc gia, hình thành quan hệ thương mại giữa các quốc gia.

Khi thực hiện chức năng này, tiền thực hiện các chức năng: thước đo giá trị, phương tiện lưu thông, phương tiện thanh toán, tín dụng, di chuyển của cải từ nước này sang nước khác. Để thực hiện được chức năng này, chúng phải là tiền vàng hoặc tiền tín dụng được công nhận là phương tiện thanh toán quốc tế. Việc trao đổi tiền tệ của một quốc gia sang tiền tệ của quốc gia khác phải tuân theo tỷ giá hối đoái, nghĩa là giá của đơn vị tiền tệ của một quốc gia tính theo đơn vị tiền tệ của quốc gia khác.

Tóm lại, với sự phát triển của sản xuất và trao đổi hàng hoá, tiền có 5 chức năng. các chức năng này có liên quan chặt chẽ với nhau và tiền thường thực hiện nhiều chức năng cùng một lúc.